Tôi tình cờ quen 1 nhà báo trẻ khi đọc các bài viết của bạn ấy chia sẻ về học bổng Fulbright. Vốn dĩ ngành báo chí mà lại là con trai với tuổi khá trẻ, tôi có 1 chút ngạc nhiên. Từ đó, cứ mỗi lần bạn ấy có bài viết mới là tôi lại đọc và cảm nhận. Đó là cảm nhân của 1 đọc giả giữa chốn báo chí câu view như hiện nay thì bạn ấy lại là 1 nhà báo cho tôi nhiều hiểu biết. Bạn ấy là Vĩnh Khang- Fulbright scholar 2015.
Bạn có thể giới thiệu 1 chút về bản thân để các bạn đọc giả được biết thêm về bạn. Bao gồm: tên, học bổng đã đạt kèm theo năm và ngành học, sở thích của bạn, nghề nghiệp hiện nay, v..v..
Tôi là nhà báo Vĩnh Khang, tôi tốt nghiệp Đại học Hà Nội năm 2008 và vào tháng 7 vừa qua, tôi tốt nghiệp ngành Thạc sĩ Báo chí tại Mỹ theo học bổng Fulbright.
Tôi làm việc trong lĩnh vực truyền thông, báo chí ngay khi tôi còn theo học ở Đại học Hà Nội, cho nên tôi thường để ý đến những học bổng “support” cho các nhà báo.
Trong năm 2013, tôi giành Học bổng Cochran của chính phủ Mỹ, đây là học bổng giành cho các nhà báo tham gia khoá học 4 tuần về truyền thông và thăm một số các Tập đoàn công nghệ sinh học lớn ở Mỹ như Monsanto hay Pioneer. Trong năm 2014, tôi xin học bổng Fulbright và trở thành một trong 14 bạn “finalists” của năm đó.
Bạn có thể chia sẻ con đường đến với học bổng như thế nào không?
Thực ra, sau khi tốt nghiệp Đại học Hà Nội, tôi không có ý định học thêm tiếp vì theo quan niệm của tôi, viết báo có thể tự học qua nhiều con đường, học qua người đi trước, học qua việc đọc sách và học qua việc tự tìm tài liệu trên mạng.
Tuy nhiên, Internet đã làm thay đổi ngành công nghiệp tin tức, kéo theo đó là định nghĩa nhà báo cũng bị thay đổi. Ví dụ, trước đây, báo điện tử và truyền hình tương đối khác biệt thì bây giờ, báo điện tử đang xích gần về phía truyền hình khi các toà soạn điện tử đang đầu tư vào lĩnh vực quay video clip.
Hay như, ở Mỹ, một nhà báo chỉ biết viết đã không còn nhiều cơ hội được tuyển dụng mà thay vào đó, nhà báo đang dần bị biến thành những chuyên gia công nghệ thông tin biết viết. Họ có thể viết, tự quay video clip, tự làm graphic, tự chỉnh hình ảnh. Ở trường mà tôi học, tất cả các kĩ năng đó giờ trở thành các môn bắt buộc cho bất kì sinh viên nào theo học ngành báo chí, bất kể là sinh viên theo học tạp chí, hay theo học truyền hình.
Xuất phát từ sự thay đổi chóng mặt đó, tôi nghĩ tôi cần chuẩn bị thêm kiến thức nâng cao để tiếp tục theo đuổi nghề nghiệp trong tương lai. Trong các học bổng chính phủ, tôi để ý nhiều đến Fulbright bởi lẽ, tôi có nhiều bạn bè từng được học bổng này và tôi nhận thấy, họ khá giống tôi, có chút gì đó độc lập trong suy nghĩ. Tôi nhờ họ tư vấn vài buổi và nhận thấy, Fulbright là học bổng hợp với tôi và là đích đến mà tôi ngắm.
Lời khuyên tốt nhất của bạn dành cho các bạn đang trên con đường tìm kiếm học bổng chính phủ là gì?
Tôi nghĩ, đó là tính phù hợp. Mỗi một loại học bổng Chính phủ chỉ hợp với một số đối tượng mà họ nhắm đến. Bạn giỏi không có nghĩa là bạn sẽ được, mà có những bạn hồ sơ kém hơn bạn nhưng họ vẫn thành công. Hãy tìm hiểu kĩ và nếu có thời gian, hãy kết nối với một số người đã từng đạt học bổng mà bạn theo đuổi. Hãy đi tìm câu trả lời. họ là ai và vì sao, họ thành công.
Từ đó, bạn sẽ biết được, học bổng đó có phù hợp với mình hay không.
Bạn có thể kể cụ thể quá trình học tại Mỹ của bạn như thế nào không?
Ngành học báo chí là ngành học thực hành, học xong một kiến thức nào đó là phải làm bài tập ngay, cho nên số bài tập lên đến con số mấy chục cho mỗi môn. Nếu được so sánh, thì tôi nghĩ, nó đã đưa tôi trở về hành trình học… trung học phổ thông, ngày nào cũng phải đọc sách và làm bài tập (tác nghiệp, thuyết trình, chụp ảnh, quay clip…).
Quá trình học tại Mỹ của tôi có thể tóm tắt: Đi học – Làm bài tập – Tác nghiệp – Đi du lịch trong các kì nghỉ lễ.
Môn nào trong ngành học này làm bạn ấn tượng nhất?
Trong các môn học tại trường, tôi thích nhất là môn Mạng xã hội. Với tôi, đó là môn học khá thực tế khi báo chí hiện nay phát triển gắn liền với mạng xã hội. Dựa vào mạng xã hội, mỗi loại hình báo chí sẽ có chiến lược riêng nhắm đến đối tượng của mình, ví dụ như một bài báo thiên về hình ảnh có thể dùng Facebook, Instagram hay Pinterest để thu hút người đọc. Tương tự, những bài tường thuật nhanh thì Twitter là một lựa chọn tối ưu. Ngoài ra, môn học này còn giúp tôi có thể lên chiến lược truyền thông cho các thương hiệu, sản xuất
nội dung độc lập trên mạng xã hội, tìm hiểu các thuật toán từ mạng xã hội và phân tích các đối thủ cạnh tranh.
Tuy nhiên, vì mạng xã hội ở Mỹ phát triển khá đa dạng trong khi người dùng Việt Nam chỉ xoay quanh Facebook, cho nên tôi phải chọn lọc những gì phù hợp với xu hướng sử dụng mạng xã hội của người Việt.
Bạn có thể kể 1 ngày đi học trong tuần của bạn khi còn học tại Mỹ không?
Tôi ưu tiên nhiều cho thời gian tự học cho nên tôi chủ đích đăng kí các môn học tập trung vào khoảng 3 đến 4 ngày, nhưng đó là những ngày khủng khiếp khi thời gian phải học trên lớp hầu như lên đến 9 tiếng. Thời gian đầu, tôi khá mệt mỏi nhưng khi đã quen dần thì tôi thấy bình thường. Đó cũng là cách tôi làm quen với môi trường làm việc có cường độ cao. Còn 3 hay 4 ngày trong tuần còn lại, tôi tự học. Nếu nói về một ngày đi học của tôi thì đó là sáng nghe giảng 3 tiếng, chiều nghe giảng 3 tiếng và tối nghe giảng 3 tiếng.
Bạn có thể kể về những điều thú vị hoặc lạ về các bạn cũng đạt Học bổng Fulbright (người Việt hoặc người nước ngoài) và những điều cá nhận bạn cảm thấy thú vị về nước Mỹ không?
Điều tôi để ý đó là những bạn Fulbrighters khá tự hào về việc đạt được học bổng này. Khi nói chuyện với nhau, Fulbright biến thành một chứ thành quả, một “hobby” mà ai cũng có thể say sưa nói về nó.
Nếu cho bạn ở Mỹ thêm 1 tuần nữa, bạn sẽ làm gì?
Tôi sẽ đi du lịch tiếp. Có một vài nơi mà tôi thực sự muốn đến như Grand Canyon ở Arizona và quay lại thành phố Nashville, tiểu bang Tennessee. Nơi đó có những chiếc xe bus màu xanh in hình Dolly Parton – một biểu tượng của âm nhạc đồng quê và chắc chắn, tôi sẽ tham dự vài đêm nhạc ở đó.
Ngành học của bạn đã/ sẽ hỗ trợ cho công việc hiện tại của bạn như thế nào?
Còn quá sớm để trả lời câu hỏi này khi tôi mới trở về nước. Tuy nhiên, tôi nghĩ cái mà tôi sẽ áp dụng nhiều nhất đó là sản xuất tin tức bằng Graphic, các dạng bài short-form (ngắn) và lên chiến lược truyền thông thông qua mạng xã hội.
Bạn có thể kể tên/ giới thiệu vài cuốn sách nước ngoài hoặc tài liệu nào mà người trong ngành báo chí nên đọc không?
Tôi thích đọc sách của các đồng nghiệp nên các cuốn sách tôi đọc thường là của các nhà báo. Tôi thực sự yêu thích cuốn “Better Living Through Criticism” của Tony Scott hay còn gọi là A.O Scott, nhà phê bình các vấn đề văn hoá đại chúng, đang làm việc cho New York Times. Tôi từng ăn trưa và trò chuyện với Tony và thực sự thích cách suy nghĩ của anh ấy. Nếu ai đó theo viết phê bình thì cuốn sách này sẽ khơi gợi cho các bạn rất nhiều thứ trong phạm vi nghề nghiệp.
Ngoài ra, tôi thích đọc cuốn “Rewire: Digital Cosmopolitans in the Age of Connection”, được viết bởi Ethan Zuckerman. Cuốn sách có cách mở đầu rất hay khi đề cập đến cách truyền tin của Việt Nam tại thời điểm đại dịch SARS diễn ra, từ đó tác giả đã dẫn giải tầm quan trọng về việc truyền tin, cũng như ứng dụng công nghệ hiện đại trong cách truyền thông tin.
Chân thành cảm ơn Vĩnh Khang đã tham gia chuyên mục “Chân dung Scholars” của nguonhocbong.com- website chuyên về học bổng du học lớn nhất tại Việt Nam.