Page Contents
Note: Chuỗi bài này mình viết dưới góc độ cá nhân: Quan điểm cá nhân, suy nghĩ cá nhận, cảm nhận cá nhân. Người viết không đưa ra bất kỳ định nghĩ hay công thức tổng quát nào cho các sự việc, hiện tượng được nhắc đến trong bài. Điều đó đồng nghĩa là, các quan điểm trong bài này không có tính đúng sai vì nó mang tính cảm nhận cá nhân. Nhưng dĩ nhiên, bạn bè gần xa có thể lên tiếng tranh luận, hoặc đóng góp để người viết có thể học hỏi, nhận ra cái mới cái hay và nhìn được điểm thiếu sót của bản thân.
Trân trọng cảm ơn- Đặng Huỳnh Mai Anh
Mình viết phần này dựa trên giả định là các bạn đã xác định được mình muốn học ngành gì (Phần 1), đã tích lũy đủ về mặt học thuật cũng như ngoại khóa. Bước còn lại, chỉ là vượt qua các kỳ thi chuẩn hóa và chuẩn bị bộ hồ sơ apply học bổng.
Bạn đang nhắm đến học bổng (hb) nào?
Đây có thể nói là bước quan trọng và nền tảng nhất. Việc bạn muốn apply học bổng nào, sẽ quyết định những kỳ thì chuẩn hóa nào bạn cần trải qua: IELTS hay TOELF, GMAT hay GRE, đến tiến trình nộp hồ sơ của bạn. Và việc chọn học bổng nào tùy thuộc vào việc: Bạn muốn theo đuổi ngành nào? Và, ưu tiên học ở đất nước nào. Có một điều mình muốn nhấn mạnh là không phải bao giờ chúng ta cũng có thể làm điều mình thích nhất hoặc có được thứ mà mình muốn nhất. Có câu rằng: “Ông trời không có mình cái mình muốn mà cho mình cái mình cần”.
Tất cả mọi thứ thuộc vào thì tương lại, bao gồm ước mơ, kế hoạch, kỳ vọng đều có thể thay đổi và chúng ta cần linh động, đôi khi không nhất thiết phải đúng như kế hoạch, và đôi khi mình cũng nên chọn cái-mình-thích-thứ-nhì hoặc thứ-ba. Mình nghĩ một sự lưa chọn tối ưu, là cái có thể dung hòa được khả năng và điều kiện nhất thời của bạn và điều bạn muốn. Trong giai đoạn mình đang rất phân vân, bạn mình đã nói một câu khiến mình được giác ngộ: “Thỉnh thoảng chúng ta cần làm cả những điều chúng ta không thích, để sau đó có được những thứ mình thích”.
Rất nhiều người từng nói: “Không gì là không thể!”. Vâng, đúng thế, mình đồng ý, nhưng mọi sự từ “không thể” thành “có thể” đều cần thời gian. Vì vậy, hãy xác định cho mình một mục tiêu không quá xa vời. Để làm được điều đó, tự bạn phải hiểu bạn. Không có công ty tư vấn du học hay anh chị du học sinh đi trước nào có thể cho bạn lời khuyên được. Mình có thể kể cho bạn nghe câu chuyện du học của mình, nhưng tự bạn sẽ viết câu chuyện của bạn. Vì vậy, hãy độc lập và tỉnh táo!
Vậy tìm thông tin apply học bổng ở đâu? Câu trả lời là: Internet. Google, các fanpage và groups trên Facebook. Điểm mạnh là: Thông tin nhan nhản khắp nơi. Điểm mệt mỏi, cũng là: Thông tin nhan nhản khắp nơi. Thượng vàng, hạ cám. Tin đáng tin, cho đến tin bịp bợm, đều có cả. Bạn sẽ có những ngày tháng miệt mài tìm kiếm, thỉnh thoảng bạn thấy thật vô vọng giữa một núi thông tin. Bạn sẽ mệt đừ vì suốt ngày phải nhảy từ trang tin này sang trang tin khác. Mình chắc chắn thế! Việc du học bằng học bổng không hề dễ, và vì nó không dễ nên những ai đạt được, họ thật sự xứng đáng.
Tuy nhiên, từ năm 2014 với sự ra đời của website nguonhocbong.com, mọi việc tìm kiếm thông tin học bổng cùng như hướng dẫn apply học bổng du học đã không còn là điều gì quá xa vời hay huyền bí như các bạn vẫn nghĩ.
Để khâu này nhẹ nhàng và hiệu quả hơn, các bạn có thể khoanh vùng quanh 3 loại học bổng:
- Học bổng trường (Vd: học bổng mình nhận được là hb toàn phần + sinh hoạt phí từ University of Westminster, UK):
Không đòi hỏi về kinh nghiệm làm việc, các bạn tốt nghiệp ĐH xong có thể lên đường ngay. Không có nhiều rằng buộc, tuy nhiên học bổng trường thường hiếm, hoặc có cho thì cũng không cho toàn phần. Cách tìm là dò la các anh chị du học sinh đi trước hoặc thông tin trên mạng (Về các tấm gương du học sinh chẳng hạn), xem xem họ được học bổng từ trường nào. Vào website của các trường và tìm hiểu thêm (Tips: Bạn có thể google: tên trường + scholarship)
- Học bổng chính phủ (Vd: Fulbright, Chevening, Irish Aid, SI, EIFFEL, NEW ZEALAND ASEAN, AAS, Endeavour, etc.):
Để apply học bổng này bạn sẽ thường được yêu cầu có kinh nghiệm làm việc từ 2 năm trở lên. Phần lớn những người nhận được học bổng là những influencers trong xã hội, họ từng trải, có kinh nghiệm trong lĩnh vực theo đuổi và có khả năng tạo ra sự ảnh hưởng trước-trong-sau khi trở về. Các học bổng chính phủ này mở rộng cơ hội và công bằng cho các bạn đến từ cả khối tư nhân và nhà nước (ngoại trừ AAS có quota cho các bạn khối nhà nước). Do đó, các bạn khối tư nhân đừng nhìn vào chữ “học bổng chính phủ” rồi tự khép cánh cửa du học bằng học bổng của mình.
ĐĂNG KÍ TÌM MENTOR HỌC BỔNG CHEVENING- CLICK HERE
- Assistantship (ở Mỹ):
Ở phần 2, mình có bàn về hình thức assistantship (TA, RA) ở Mỹ. Đây không hẳn là học bổng, vì bạn sẽ vẫn phải làm việc giảng dạy/nghiên cứu để đổi lại được miễn học phí và trả lương (stipend-sinh hoạt phí) trong quá trình theo học. Thông thường, assistantship được trao cho các bạn có ý định học thẳng lên PhD (Phổ biến hơn ở khối ngành Khoa học và nghiên cứu). Còn nếu bạn apply vào master, đặc biết master liên quan đến quản trị và kinh doanh thì dường như không có assistantship. Tại Mỹ , master mang tính ứng dụng còn PhD thì mang tính hàn lâm, nên ở Mỹ nếu bạn đã chọn nghiên cứu thì sẽ học thẳng lên PhD chương trình 5 năm (xem như 1 dạng labour trong Lab luôn, chứ PhDer cũng không hẳn là cái gì quá cao siêu như mọi người vẫn thường hình tượng hóa), không có bước đệm là Master như các nước khác. Học master sau đó bạn sẽ đi làm, như vậy đó là đầu tư cho bản thân bạn, bạn nên tự bỏ tiền. Họ chỉ hỗ trợ cho nghiên cứu sinh PhD, vì những người này phải học hành dai dẳng, khổ sở hơn và sau đó họ có thiên hướng đi nghiên cứu và giảng dạy nhiều hơn. Hiếm nhưng không có nghĩa là không có, ví dụ mình có biết trường Northern Illinois University và Southern Illinois University có assistantship cho SV master (Tips: Google key words: Assistantship + tên ngành bạn muốn học).
Hướng dẫn đăng kí khóa học- Click Here
Đa số các học bổng lớn (từ bán phần trở lên, 50%, 100%) đều là những học bổng “đến hẹn lại lên”. Điều đó có nghĩa là: Năm nào cũng sẽ có, bạn chỉ cần chuẩn bị, chờ đợi, đến hạn, apply. Điều đó cũng có nghĩa là: Rất nhiều người khác cũng làm giống như bạn. Như vậy, những học bổng càng lâu đời, càng phổ biến thì lại càng cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu được phép khuyên bạn, mình sẽ nói rằng: Đừng “rải truyền đơn” tàn lan để nâng xác suất thành công.
Vì mình cũng đã từng làm như thế rồi, và mình thấy mệt mỏi, kiệt sức, tốn kém, hoang mang và thiếu sự tập trung. Đã từng có mùa, mình rải 12 bộ hộ sơ và trật hết (Được nhận học, nhưng không được học bổng , hoặc học bổng không như mong muốn). Còn 2 học bổng mà mình dành được, giai đoạn đó mình chỉ apply một trường duy nhất và thành công. Apply học bổng là một việc tốn công sức và thử thách lòng tin nhất mà mình từng trải qua.
Nhiều hơn là chỉ học Anh Văn, nộp đơn, đợi chờ, giai đoạn apply hb, với mình, rất mệt mỏi vì sự căng thẳng và hoang mang về tinh thần, và cả việc bạn phải cân bằng giữa đời sống thường nhật của bạn (đi học, đi làm, đi chơi với người yêu) và chuẩn bị cho kế hoạch du học. Vì vậy, mình nghĩ nên giới hạn sự lựa chọn của bạn xuống tầm 3-5 trường và tập trung toàn bộ tinh thần và sức lực cho nó
Lên kế hoạch, chia nhỏ công việc
Sau khi đã tìm hiểu và rút lại được còn 3-5 trường ưu tiên, mình lập một file excel như sau:
Dựa vào yêu cầu từng trường, bạn sẽ biết mình cần chuẩn bị những gì, thi những gì, nhưng thông thường, một bộ hồ sơ du học gồm các thành phần chính sau:
- CV
- SOP (Một số trường sẽ yêu cầu tách ra thành Personal Statement và Motivational Statement)
- LoR
- IELTS/TOELF
- GRE/GMAT (Trừ Mỹ, các nước khác thường không đòi hỏi, nhưng những trường tốt ở Pháp và Anh vẫn sẽ yêu cầu, vd: trường mình ở Anh không đòi, nhưng Oxford đòi GRE 330+)
- Các giấy tờ khác (như bảng điểm, bằng đại học)
Dựa vào các thành phần này, mà bạn sẽ lên kế hoạch chuẩn bị. Tùy theo năng lực và thời gian bạn có mà quá trình chuẩn bị có thể nhanh hay chậm. Mình thường dùng Gantt chart để lên kế hoạch, dưới đây là timeline kiến nghị cho một người với năng lực và khả năng tiếng Anh ở mức Intermediate (3 tiếng mỗi ngày trong 12 tháng) như sau:
Tiếp theo mình sẽ bàn về từng thành phần trong bộ hồ sơ, bỏ qua CV (Vì cách dễ dàng nhất là tìm các mẫu CV trên mạng.
- IELT/TOELF
Các trường ở Mỹ sẽ chuộng TOELF hơn, các trường ở Anh và Úc nói chung chuộng IELTS. Thật ra hiện nay TOELF và IELTS khá bình đẳng và được chấp nhận như nhau. Tuy nhiên, thang điểm quy đổi giữa 2 bên thì chưa thống nhất. Nên những nơi chuộng TOELT, thì quy đổi bị thiệt cho IELTS, ví dụ cho 90 TOELF ibt = 7.5 IELTS. Còn nơi ưng IELTS, thì đổi: 7 IELTS = 100 TOELF iBt. Vì vậy, như mình nói, việc xác định trường muốn apply trước, tìm hiểu thông tin và xác định thang điểm cần đạt từ đầu sẽ giúp chúng ta có những bước đi đúng đắn hơn.
Cá nhân mình, đã thi qua cả TOELF và IELT (Giai đoạn chưa có định hướng đúng đắn nên thi tùm lum), thì mình cảm thấy IELTS có phần dễ hơn, mặc dù TOELF iBT được thiết kế hay hơn và gần với thực tế hơn. Trong TOELF iBT, các kỹ năng được kết hợp với nhau. Ví dụ, thi nói, thì nghe một đoạn, rồi nói trên nội dung đoạn nghe được. Thi viết, có task 2, là đọc một đoạn, nghe một đoạn, rồi viết bài tổng hợp lại. IELTS thì các kỹ năng chia ra nên mình thấy có phần dễ hơn, những là với các bạn không giỏi nghe. Mình cũng thi TOELF rất lâu về trước rồi, giờ cũng không nhớ nhiều nên mình sẽ tập trung chia sẻ các mẹo thi IELTS.
Thời gian dự kiến: mình để ở đây là 5 tháng, trong thời gian đó sẽ đan xen học GRE/GMAT, vì vốn từ, kỹ năng đọc/viết ở hai bên có thể bổ trợ cho nhau. Thực tế, bạn hoàn toàn có thể ôn và thi IELTS dứt điểm trong thời gian ngắn hơn (Lúc mình thi, khá lụp chụp, mình chỉ có 3 tuần để ôn – 1 tuần bị sốt xuất huyết. Mình cũng biết có người chỉ cần ôn trong 1 tuần).
Giáo trình đề nghị: Mình thấy bộ Cambridge Practice Test (từ cuốn 1-10) là đầy đủ và sát với đề thi nhất (đề thi thiệt sẽ khó hơn), nên nếu bạn đã có kiến thức tiếng Anh sẵn thì có thể “nhào” vô luyện bộ này thôi đã rất đủ để thi rồi. Với các bạn chưa chắc tiếng Anh, cần củng cố lại kiến thức trước khi bắt tay vào ôn, thì mình nghĩ việc đi học một khóa tiếng Anh là lựa chọn hay (đỡ hoang mang hơn tự học), và cá nhân mình thấy việc học với người Việt trong mảng hệ thống và ôn lại kiến thức sẽ hiệu quả hơn học với giáo viên nước ngoài.
- GRE/GMAT
Sự khác nhau giữa GRE và GMAT là: GMAT là yêu cầu đầu vào cho các chương trình management, và GRE là dành cho các ngành còn lại. Mình học về Kinh Tế, được tính là ngành khoa học (không phải management) nên mình sẽ học GRE. Thực tế, mình chưa thi GMAT bao giờ nên sẽ chỉ chia sẻ kinh nghiệm về GRE.
Mình nghĩ là so với GMAT, thì toán của GRE có phần dễ hơn. Các câu hỏi chủ yếu tập trung vào các kiến thức toán căn bản cuối cấp 2 – đầu cấp 3, đa số SV VN đều được trong khung 160-170/170. Nhưng phần Verbal của GRE thì… kinhhhhhh khủngggggggg. Mình thi GRE 2 lần: Lần đầu ở Việt Nam (ôn trong 1.5 tháng) mình học được khoảng 1,500 từ GRE, điểm Verbal được 148/170. Lần thứ 2 mình thi GRE ở London (ôn trong 3 tháng), mình học được 3,000 từ (Bao gồm cả việc học lại 1,500 từ trước đó đã quên theo năm tháng), lần này Verbal được 158/170.
Nên mình nghĩ, để có thể thi GRE tốt, bạn nên học được từ 2,500 – 3,000 chữ. Và, mình đồng ý là việc học từ GRE là cái việc vô cùng mệt mỏi, dai dẳng và thử thách lòng kiên nhẫn. Thế nên, theo timeline, thì mình chia việc chuẩn bị GRE ra làm 2 giai đoạn:
Đặc điểm của GRE Verbal, là nếu bạn không biết từ, bạn không thể nhảy vào làm ngay được. Nên nếu bạn mở bài ra làm thử mà không được câu nào, thì cũng đừng hoang mang. Bạn cần học thêm ít nhất 1,000 từ mới có thể bắt đầu làm đề.
ĐĂNG KÍ TÌM MENTOR HỌC BỔNG ERASMUS MUNDUS- CLICK HERE
Giai đoạn 1 (xanh nhạt, sẽ học đồng thời với IELTS, bạn chia ra xem 3,000 từ thì mỗi ngày học bao nhiêu từ). 3,000 từ này mình học theo word list GRE của Barron, nhưng học list 800 Frequent words trước, rồi list 1,500 (Google key word: GRE frequent words).
Sau đó, học thêm thắt. Đặc điểm của việc học từ trong GRE là, mình không cần dùng những từ mới đó mà chỉ cần khi nhìn thấy nó trong câu hỏi mình biết nghĩa nó là gì. Nên học bằng flashcard là cách hiệu quả nhất trong trường hợp của GRE. Trên smartphone cũng có nhiều app hỗ trợ học. Apps mình thấy làm hay và dễ học nhất là: GRE Vocabulary Flashcard from Magoosh.
Giai đoạn 2 (xanh đậm) thì mình đã có một vốn từ đủ để bắt đầu luyện đề. Bộ Princeton Craking GRE là giáo trình quá kinh điển rồi, nên mình nghĩ bạn nên bắt đầu bằng bộ này. Nhưng nhìn chung, đề trong Princeton quá dễ so với đề thi thực tế. Mình cũng có xem qua một vài bộ khác của Kaplan, Barron, McGraw-Hill.
Nhưng thấy không xác với đề lắm. Cách mình học trong giai đoạn này là đăng ký tài khoản https://grockit.com/ (Lệ phí là khoảng 150.000 đồng/tháng) và giải đề mỗi ngày trên trang này. Trang thiết kế rất hay, có giải thích sau mỗi câu hỏi. Và, quan trọng nhất, là mình có rất nhiều đề Verbal để làm. Làm liên tục, vừa làm vừa học từ trong chính các câu hỏi đó. Nhờ làm và có sự tương tác, nên việc học GRE đỡ thấy ngán hơn và mình cũng được trả lời các câu hỏi xoay quanh mớ từ vừa học. Các câu trên này, phần Verbal, cũng khá sát với đề thi. Luyện trên này tầm 3 tháng thì tự tin đi thi được.
- LoR
Chúng ta sẽ quan sát mọi thứ không phải lẻ tẻ từng thành phần mà như một bức tranh hoàn chỉnh. Vì vậy, LoR, SOP và CV phải có sự cộng hưởng và tương trợ lẫn nhau. CV chỉ điểm tên những sự kiện bạn trải qua, SOP để kể lại những điểm nhấn đó từ góc nhìn của bạn và LoR để kể lại từ góc nhìn của người thứ 3 (một người có tiếng nói và uy tín).
Như vậy, trong mỗi thành phần, bạn sẽ có một thông điệp lớn muốn truyền tải. Vậy, nói về bản thân bạn, bạn muốn người ta nghĩ về bạn như thế nào? Hãy suy nghĩ về nó, dựa trên những thông tin về nơi bạn muốn apply vào và tiêu chí họ tuyển chọn. Sau đó, hãy có chiến lược cho bộ hồ sơ của mình. CV, SOP và LoR vừa là sự lặp lại (dựa trên các sự kiện), lại vừa là sự khác nhau.
Nếu trong SOP bạn đã nói bạn là một người cầu tiến bằng sự kiện A, B, C, thì trong LoR nó nên là những ví dụ khác X, Y, Z. Ngoài ra, có những câu chuyện không thể trở thành 1 dòng trong CV được, hãy kể về nó trong SOP và LoR.
Đầu tiên, bạn cần xác định ai sẽ là người viết LoR cho bạn? Người đó cần đảm bảo các tiêu chí: Có uy tín, quen biết bạn và sẵn lòng giúp đỡ bạn (Vì bạn sẽ cần nhờ viết LoR nhiều lần chứ không phải một lần). Đa số các trường sẽ có đề nghị cụ thể là cần 1 hay 2 LoR (người viết LoR là thầy cô của bạn hay là cấp trên). Tiếp theo, bạn xác định bạn muốn truyền tải thông điệp gì (về bạn) và gợi ý với người viết. Đa số các giáo sư nước ngoài sẽ tự viết, còn các thầy cô Việt Nam sẽ có xu hướng để bạn tự viết, rồi các thầy cô xem lại.
Bạn hoàn toàn có thể tìm được nhiều mẫu LoR trên mạng. Nhưng, cá nhân mình nghĩ nên viết LoR có những câu chuyện thức tế, ví dụ rõ ràng thay vì những câu chữ quá chung chung.
Ngoài ra, bạn cần tìm hiểu cách gửi LoR cho trường. Một số trường sẽ cho bạn đăng ký địa chỉ e-mail của các thầy cô (địa chỉ e-mail trường, không phải gmail hay yahoo mail cá nhân), sau đó trường sẽ gửi link để các thầy cô submit LoR lên. Cũng có một số trường, các thầy cô phải gửi mail đến địa chỉ của họ. Cuối cùng, bạn nhớ follow-up, nhắc các thầy cô nộp LoR đúng hẹn cho bạn. Nếu thầy cô cho bạn xem lại LoR, và bạn muốn thêm hay bớt ý nào cứ thẳng thắn. Everything worth doing is worth doing well.
- SoP
Lúc trước mình nghĩ SOP là bước cuối cùng rồi. Chắc đến bước đó chỉ việc nhẽ nhõm viết là xong. Nhưng khi bắt tay vào viết rồi, thì mới thấy viết SOP là việc nhức não và hoang mang nhất. Căn nguyên của sự hoang mang đến từ việc mình đã xem quá nhiều bài mẫu và để quá nhiều được đọc và góp ý cho mình. Y như đẽo cày giữa đường, mỗi người góp một ý (đôi khi các ý ngược chiều nhau). Và khi nghe mọi người góp ý, dù mình rất muốn nghĩ theo hướng tích cực, thì mình vẫn không tránh khỏi việc có những suy nghĩ rất bi quan và hoang mang về bản thân.
Nhiều người bảo SOP chiếm đến 50-60% sự thành công của bộ hồ sơ. Mình không đồng ý lắm. SoP rất quan trọng, nhưng như đã nói nó là một mảng trong bức tranh tổng thể. Những gì bạn đã có và tích lũy nó sẽ luôn ở đó và thể hiện qua nhiều mảng khác, chứ không hẳn cứ viết SoP dở thì bạn sẽ tạch. Nên mình muốn nhắn bạn rằng đừng hoang mang và để mình stress quá.
Và, hãy rút kinh nghiệm từ mình đừng tham khảo nhiều nguồn quá, và chỉ nên nhờ 1-2 người thật sự tin cậy, điềm tĩnh và hiểu rõ bạn, giúp bạn đọc và sửa SoP. Không hẳn là cần một câu mở đầu thật giựt gân, một câu chuyện hừng hực hào khí hay đẫm nước mắt, bạn chỉ cần trả lời được:
- Bạn đã làm gì để sẵn sàng cho việc học lên cao?
- Tại sao bạn lại chọn ngành này/trường này?
- Bạn muốn học gì trong suốt thời gian theo học?
- Sau khi học xong, kế hoạch của bạn là gì?
Lưu ý là 4 điểm này có liên quan nhau, và bạn phải giữ được sự nhất quán khi đề cập đến 4 điều trên, thì mới logic và thuyết phục. SoP sẽ cần viết đi viết lại nhiều lần, sẽ có nhiều phiên bản. Bạn hãy cứ bình tĩnh, làm hết sức, làm thật tốt. Và hãy nhớ rằng mọi thứ là cả một quá trình, là cả một bức tranh và không có yếu tố nào trong số đó mang tính quyết định cả.
————-
Lời Kết cho công cuộc apply học bổng
Như vậy đây sẽ là phần cuối cùng trong chuỗi bài của mình về việc du học. Mình hay nói với đám bạn rằng: Đi du học và được học bổng du học là những chuyện ai cũng muốn, và mọi người thường than sao mình khao khát, mong muốn lắm mà không được.
Tuy nhiên thực tế sẽ có người muốn nhiều, có người muốn ít. Sự khó khăn chỉ để “test” xem bạn có thực sự muốn một điều gì đó nhiều như bạn nghĩ không. Bạn có muốn đủ nhiều để dành 4 tháng ngồi ôn IELTS, thêm 6 tháng ngồi học GRE, để sửa đi sửa lại từng câu chữ trong SoP và để ngay cả khi 12 tháng đó không đem lại cho bạn một kết quả mong muốn bạn sẽ bắt đầu thêm lần nữa?
Có những người mọi việc đến với họ dễ dàng hơn người khác. Có những người đã thành công ngay trong lần đầu tiên xin học bổng. Có những người hoặc rất may mắn, hoặc là thiên tài. Mình không phải cả hai, và mình sẽ kể cho bạn nghe mình từng bị từ chối 12 lần, liên tiếp nhau trong 4 tháng và mình đã có 1 năm, có lông bông, có tuyệt vọng, có tìm kiếm, có hoang mang.
Nhưng mình đã chưa từng nghĩ đến chuyện từ bỏ, kể cả khi mẹ mình bảo: “Sao mày không chịu sống cho bình thường như người ta?”. Bởi khi nhìn ra cửa sổ, giữa rất nhiều đỉnh núi, sẽ có một đỉnh cao nhất bạn muốn leo lên. Vậy hãy cứ thử leo đỉnh cao nhất.
Rất có thể giữa chừng không leo nổi, bạn sẽ tụt xuống và tìm một đỉnh thấp hơn. Nhưng chí ít, bạn đã dốc lòng leo nó để biết nó không dành cho mình, vậy còn hơn ngay từ đầu chọn leo một đỉnh thấp hơn, rồi từ đó bạn cứ đứng mãi trên đỉnh thấp, ngước lên và tự hỏi: Nếu ngày xưa, mình thử, có thể nào được không?
Vậy thì, mình sẽ không dối bạn: Đúng thế, để apply học bổng thành công thì mọi thứ sẽ khó, rất rất là khó. Rất có thể bạn sẽ không làm được. Vậy? Bạn vẫn muốn thử chứ?
——————-
Bài viết có một số chỗ edit để phù hợp hơn và chính xác hơn do Team nguonhocbong.com thực hiện.